Bánh Ú Tết Đoan Ngọ ở miền Nam có gì khác với ở miền Bắc không?

0
1023

Theo quan niệm dân gian, ngày 5.5 âm lịch hàng năm được coi là ngày Tết Đoan Ngọ hay còn gọi là ngày diệt sâu bọ đã trở thành nét đẹp in đậm trong văn hoá truyền thống Việt Nam. Và ở mỗi vùng miền, Tết Đoan Ngọ lại mang một ý nghĩa khác nhau.

Ảnh: kenh14.vn

Nguồn gốc, ý nghĩa ngày Tết Đoan Ngọ.

Tết Đoan Ngọ hay còn được gọi là tết Đoan Dương, được tổ chức vào giờ Ngọ, ngày mùng 5 tháng 5 Âm lịch hằng năm. Đây là một ngày tết truyền thống tại một số quốc gia Đông Á như Việt Nam, Triều Tiên, Đài Loan, Nhật Bản và Trung Quốc. “Đoan” có nghĩa là mở đầu, “Ngọ” là khoảng thời gian từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều, ăn tết Đoan Ngọ là ăn vào buổi trưa. Đoan Ngọ tức là lúc mặt trời bắt đầu ngắn nhất, ở gần trời đất nhất.

Ở Việt Nam, tết Đoan Ngọ còn được gọi với cái tên khá dân dã đó chính là “tết giết sâu bọ”. Hiểu đơn giản, đây chính là ngày phát động bắt sâu bọ, tiêu diệt bớt các loài sâu bệnh gây hại cho cây trồng.

Theo truyền thuyết kể lại, một ngày sau khi thu hoạch, nông dân ăn mừng vì trúng mùa nhưng sâu bọ năm ấy lại kéo dày ăn mất cây trái, thực phẩm đã thu hoạch. Mọi người đau đầu không biết làm cách nào để có thể giải được nạn sâu bọ này, bỗng nhiên có một ông lão từ xa đi tới tự xưng là Đôi Truân. Ông chỉ cho dân chúng mỗi nhà lập một đàn cúng gồm đơn giản có bánh tro, trái cây, sau đó ra trước nhà mình vận động thể dục.

Nhân dân làm theo chỉ một lúc sau, sâu bọ đàn lũ té ngã rã rượi. Lão ông còn bảo thêm: Sâu bọ hằng năm vào ngày này rất hung hăng; mỗi năm vào đúng ngày này cứ làm theo những gì ta đã dặn thì sẽ trị được chúng. Dân chúng biết ơn định cảm tạ thì ông lão đã đi đâu mất. Để tưởng nhớ việc này, dân chúng đặt cho ngày này là ngày “Tết diệt sâu bọ”, có người gọi nó là “Tết Đoan ngọ” vì giờ cúng thường vào giữa giờ Ngọ.

Ảnh: truyenhinhdulich.vn

Đất nước Việt Nam dài và rộng như thế, hẳn nhiên mỗi vùng miền đều có một ít sự khác biệt trong khâu chuẩn bị mâm cỗ. Ví dụ như ở miền Trung hay cúng chè kê, còn ở miền Nam thì thường cúng chè trôi nước. Cả rượu nếp của ba miền cũng có sự khác biệt nhất định, với rượu nếp miền Nam (thường gọi là cơm rượu) được vo viên; ở miền Trung thì cắt khúc và ở miền Bắc có loại cơm rượu nếp hạt rời. Duy chỉ có một điểm tương đối giống nhau mà miền nào cũng có, ấy là bánh tro. Bánh tro có thể khác về hình dáng, tên gọi (miền Bắc có gọi bánh gio, miền Nam gọi bánh ú) song trên mâm cỗ lúc nào cũng phải có món bánh gạo nếp được ủ với nước tro đặc biệt.

Món bánh này có màu cam hoặc xám nhạt, vàng nhạt, có nhiều chỗ làm đến gần như trong suốt, dai dai. Thông thường khi ăn thì bánh đã nguội lạnh, lúc bóc bánh ra, tay sẽ có cảm giác dinh dính gạo nếp. Đây là thức quà được trẻ con yêu thích vì gạo nếp mềm dẻo dễ ăn, kèm với vị ngọt lịm từ nhân đậu xanh hoặc bánh mật thoả mãn sự hảo ngọt của các bé.

Nhắc đến đây, dễ thấy hai miền Nam, Bắc có hai kiểu bánh tro rất khác nhau, cách làm, cách ăn đều chứa lên sự độc đáo và mang âm hưởng đặc sắc của hai miền đất riêng biệt.

Truyền thống ăn Tết Đoan ngọ tại các tỉnh miền Bắc

Tại Hà Nội và một số vùng của miền Bắc ngày này, truyền thống ăn Tết Đoan ngọ không thể thiếu được rượu nếp, đặc biệt là rượu nếp cẩm.

Trái cây được các gia đình lựa chọn trong ngày này là những loại quả mùa hè, tươi ngon và có vị chua chua như: mận, đào, vải, chôm chôm, xoài, dưa hấu… Quan niệm dân gian cho rằng bộ phận tiêu hoá của con người thường có các loại ký sinh gây hại và chúng nằm sâu trong bụng nên không phải lúc nào cũng diệt được. Duy có ngày mồng 5/5 (âm lịch), các loại ký sinh này thường ngoi lên, con người có thể ăn thức ăn, hoa quả vị chua, chát và nhất là rượu nếp, có thể loại bỏ chúng.

Nguồn: internet

Trước đây, trong dịp Tết Đoan ngọ người dân một số vùng ở miền Bắc còn có tục nhuộm móng chân, móng tay, tục khảo cây lấy quả, tục treo ngải cứu để trừ tà… Những em bé chưa biết đi thì được lấy một ít vôi quyệt vào thóp, vào ngực và rốn để chúng không bị đau bụng, nhức đầu. Tuy nhiên, phần lớn các tục lệ này nay đã được bãi bỏ, chỉ còn giữ lại tục tắm nước lá và tục đi hái lá thuốc.

Bánh tro (gio) của miền Bắc

Bánh tro miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng còn có tên gọi khác là bánh gio mật, là một trong những thức quà chứa đầy cả bầu trời tuổi thơ, của những đứa trẻ mà không phải dịp nào cũng có. Chỉ mỗi Tết Đoan Ngọ thì bánh gio mới xuất hiện nhiều, còn lại thời gian trong năm, muốn gặp được cũng không dễ dàng. Hình ảnh chiếc bánh vàng óng, bóng bẩy mềm mại đầy hấp dẫn luôn là thứ thu hút người ta đầu tiên khi nhìn vào mâm cỗ; và hẳn là đứa nhóc nào cũng nhớ về sự háo hức khi chờ người lớn cúng cho xong, để còn được nhấm nháp hương vị mát lành, ngọt ngào ấy.

Bánh được làm từ gạo nếp ngâm trong nước gio, cái thứ nước được pha chế từ gio than thu được sau khi đốt thảo mộc, cùng với ít vôi trong. Đây là tiền đề làm nên hương vị đậm đà, có phần quyến luyến nơi đầu lưỡi của nếp bánh. Ai mới ăn lần đầu có lẽ sẽ e ngại vị tro hơi nồng, ai quen rồi mới thấy gây nghiện.

Để thưởng thức bánh gio theo kiểu miền Bắc, đầu tiên phải cẩn thận mở từng lớp, từng lớp lá gói, sau đó dùng dây lạt buộc bánh để cắt bánh ra. Nếu dùng dao hay muỗng xắn, gạo nếp mềm dẻo sẽ dính lên, khó rửa, mà khi cắt ra bánh cũng bị dính và nát, chẳng còn đẹp nữa, uổng mất từng khối, từng khối đẹp như hổ phách. Sau khi cắt ra thành miếng nhỏ bày ra đĩa, đây mới chính là màn mà đứa trẻ con hay thậm chí là người lớn nào cũng trông chờ: mật mía. Một điểm đặc biệt của bánh gio miền Bắc là ăn cùng với mật mía mát ngọt.

Hình ảnh những khúc bánh nhỏ màu cam gần như trong suốt vốn đã rất đẹp, nay rưới lên một ít mật mía sền sệt, thoang thoảng mùi thơm. Hiệu ứng hình ảnh không thôi cũng đủ kích ứng vị giác, khiến người ta mê mẩn. Hoặc, nếu không rưới lên, có thể dùng tăm hoặc nĩa xiên một miếng bánh nhỏ rồi chấm đường mật ở ngoài. Nhờ cắt thành miếng nhỏ sẵn nên khi cho vào miệng sẽ cảm thấy rất gọn gàng, không có cảm giác thiếu nhã nhặn. Khi bánh vào trong miệng, điều đầu tiên cảm nhận được là kết cấu bánh mềm dai, lành lạnh, sau đó là vị ngọt của mật mía mang theo hương thơm nhàn nhạt lan toả cả khuôn miệng.

Lúc này, ta nên bắt đầu cẩn thận nhai, nhai chậm, cốt để mật theo từng chuyển động mà lan đều trong các thớ bánh. Vị ngọt của mật sẽ hoà lẫn với hương tro, cái mùi ngai ngái đặc trưng giúp trung hoà mật mía và ôm giữ nó lại, khiến sau khii đã nuốt xuống một thời gian rồi, ta hãy còn cảm giác hương vị nhấn nhá đâu đây.

Bánh ú tro của miền Nam

So với kiểu thưởng thức bánh gio tinh tế của người miền Bắc, miền Nam và Sài Gòn nói riêng lại có vài phần phóng khoáng hơn, âu cũng là do cấu tạo của món bánh. Ở các tỉnh phành phía Nam, bánh gio được gọi là bánh ú, và không cần ăn kèm với mật hay các chất tạo ngọt bên ngoài, bởi lẽ trong bánh có nhân đậu xanh giã vốn ngọt sẵn. Về phần vỏ bánh, bánh không khác bánh gio miền Bắc, với cách chế biến tương tự, thành phẩm cuối cùng có màu cam hoặc vàng đặc trưng, một số nơi gần như trong suốt như thạch.

Bánh hầu như luôn luôn có dạng hình kim tự tháp nhỏ, ba chóp tập trung nhiều nếp, còn chính giữa là nhân đậu ngọt ngào. Nhân đậu của bánh cũng rất khác với nhân đậu trong các món bánh tét, bánh cam, chè trôi nước… đậu xanh trong các loại bánh kể trên có phần khô và mang màu vàng nhạt, được giã nhuyễn, trong khi nhân bánh ú lại có độ ẩm, nhân đậu mềm, có màu nâu đặc trưng của tro. Nhiều người đôi khi còn cắt một miếng mứt bí đao bỏ vào giữa nhân đậu, để khi nấu chín, cắn ra có phần thơm.

Ảnh: kenh14.vn

Chính vì có sẵn nhân ngọt, nên bánh ú lá tro miền Nam không cần ăn kèm mật. Mỗi chiếc bánh ú lá tro thông thường cũng có kích cỡ khá nhỏ, ba ngón tay trẻ con chụm lại là có thể cầm vừa vặn. Vậy nên thông thường, người Miền Nam theo thói quen gỡ lớp lá, sau đó cầm bên ngoài lá rồi cứ thế nhấm nháp ngay trên tay. Một số người không ngại dính tay thì gỡ luôn lớp lá, sau đó cầm thẳng bánh mà ăn. Hiếm ai ăn bằng dụng cụ như đũa, muỗng hoặc bày ra đĩa. Mặt khác, do bánh có hình dạng khá nhỏ nên người ta có thể ăn liền tù tì vài cái mới gọi là “tàm tạm”.

Cũng giống bánh gio miền Bắc, bánh ú tro miền Nam gắn liền với tuổi thơ của nhiều người. Đó là mâm cúng chất cao cao những chiếc bánh hình khối tam giác, là những khoảnh khắc “chầu chực” bên cạnh mẹ cha, hãy còn ngây ngô chưa hiểu lắm ý nghĩa của việc cúng kiếng, chỉ biết đến chốc lát thôi là được ăn bánh ú tro rồi.

Một món bánh, lại mang theo nét đẹp của sự đa dạng trong văn hoá người Việt Nam. Cũng giống như bản thân người Việt có đức tính hoà đồng, yêu thương và nhân ái, chiếc bánh tro cũng không ngại tự hoá thân thành hai thân phận, hoà mình cùng văn hoá, môi trường và con người của hai vùng đất khác nhau. Cho dù là cách ăn nào đi chăng nữa, món bánh gạo nếp ngâm nước tro đầy công phu vẫn là một phần chẳng thể thiếu của dịp Tết Đoan Ngọ. Thậm chí, ngay cả khi bạn cảm thấy rất lạ lẫm với cách ăn của mỗi vùng thì cũng đừng ngại thử ăn theo cách ấy, biết đâu lại được “khai sáng”, lĩnh hội được một cách thưởng thức bánh tro mới mẻ và tuyệt vời cho ngày Tết Đoan Ngọ năm nay?

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây